Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Một số sự kiện tiên phong trong y học

Lịch sử y học hiện đại đã chứng kiến nhiều thành tựu làm trảo đổi cuộc sống, giúp con người tránh được nhiều loại bệnh nan y, dưới đây là một số sự kiện được xem là những mốc lịch sử “đầu tiên và quan trọng” đã làm trảo đổi diện mạo ngành nghề y dược của nhân loại xưa và nay.

Cuộc thử nghiệm lâm sàng đầu tiên

Cuộc thử nghiệm lâm sàng trước hết được thực hiện trên một con tàu với 12 thủy thủ bị suy dinh dưỡng tham gia, họ được chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm hai người và dùng các loại thuốc khác nhau. Một nhóm sử dụng dấm, một nhóm dùng nước biển và các loại hoa quả khác. Kết quả cho thấy nhóm người sử dụng cam và chanh có sự hồi phục sức khỏe tốt nhất. Chỉ trong vòng 6 ngày, hai nhóm thủy thủ dùng cam và chanh đã phục hồi, một nhóm quay trở lại làm việc. Qua đây, người ta biết rằng bệnh suy dinh dưỡng, còi cọc là do thiếu vitamin C nên nhóm được điều trị bằng quả chua đã mang lại kết quả. Từ đây, nó phát triển thành kim chỉ nam cho ngành nghề y.

Một số sự kiện đi đầu trong y học 1 Tiêm vaccin phòng bệnh cho trẻ đã được chú trọng từ thế kỷ 18.

Ứng dụng dịch tễ học đầu tiên

BS. John Snow, người được xem là cha đẻ của lĩnh vực dịch tễ học, người đi đầu trong việc dùng dịch tễ học. Trong thế kỷ thứ 19, các thuyết hiện hành cho rằng dịch tả và nhiều bệnh nan y khác là do miasmas hay còn gọi là khí độc gây ra. John Snow là người tiên phong tôn trọng đề xuất này, ông cho rằng dịch tả là do nguồn nước ô nhiễm gây ra. Trong đó Snow thể hiện nguồn nước thiếu vệ sinh chính là nơi chứa độc tố. Vào thập niên 50 thế kỷ 19, John Snow đã phân tích và tìm ra nguồn nước chính là thủ phạm gây dịch tả ở London, Anh năm 1850. Giới học kém chất lượng hồi đó phản đối quyết liệt quan điểm này, nhưng sau lúc nguồn nước được cố gắng thì dịch bệnh giảm mạnh. Năm 1858, Snow qua đời nhưng học thuyết của ông vẫn tiếp diễn được tranh cãi mà phải đến nhiều thập kỷ sau mới chính thức được công nhận.

Chương trình tiêm chủng đầu tiên

Việc phát minh ra vaccin được xem là 1 phát minh sáng chói và việc tiêm chủng cũng được xem là 1 trong những phát minh trước nhất và nhu yếu trong lĩnh vực y. Việc chủng ngừa vaccin trước nhất đã cứu được hàng triệu người trên thế giới hay còn gọi là tiêm phòng miễn dịch theo nhóm, đặc biệt cho trẻ nhỏ và cho những bệnh nhân ung thư. Chủng ngừa vaccin theo nhóm là số người tham gia phải đạt trên 95% dân số chung của cộng đồng, riêng việc tuyên truyền để đạt được tỷ lệ này là điều cực kỳ khó khăn, vì vậy việc chủng ngừa vaccin được xem là bắt buộc đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Năm 1840, ở Anh người ta đã ban hành đạo luật có tên “Luật chủng ngừa vaccin” cung cấp dịch vụ vaccin miễn phí cho người nghèo. Năm 1853, việc tiêm bộ phận cho toàn bộ trẻ em dưới 3 tháng tuổi được xem là bắt buộc, đến năm 1867 quy định tiêm phòng đậu mùa cho trẻ dưới 14 tháng tuổi cũng bị đưa về chương trình y tế dự phòng bắt buộc, ai không chấp hành sẽ bị phạt, thậm chí còn bị bỏ tù. Do sự phản đối của công chúng, năm 1898, đạo luật tiêm phòng vaccin ở Anh đã được nới lỏng nhưng do lợi ích quá to nên mọi người đã tự nguyện chấp hành.

Cuộc phẫu thuật trước nhất được gây tê

Phải nói ngay rằng, phẫu thuật hiện đại có thể làm được mọi thứ dưới sự hỗ trợ của các phương pháp gây tê, gây mê cho người bệnh. Thủ thuật gây tê trước nhất được ghi nhận dùng trong phẫu thuật là thủ thuật gây tê toàn thân năm 1804 do bác sĩ người Nhật tên là Seishu Hanaoko thực hiện. Hanaoko đã sử dụng 1 hợp chất chiết xuất từ cây trồng để gây tê cho một phụ nữ 60 tuổi bị bệnh ung thư vú có tên là tsusensan. Đây là hỗn hợp có các thành phần hoạt hóa giúp giảm đau chỉ cần khoảng 2 - 4 giờ và tới nay, phương pháp gây tê này vẫn đang được sử dụng. Tuy hỗn hợp nói trên không an toàn tuyệt đối theo quan điểm của y học hiện đại nhưng nó lại có hiệu quả cao, giúp BS. Hanaoko phẫu thuật từng phần. Sau 30 năm, phương pháp gây tê trên được vận dụng cho trên 150 ca cắt bỏ vú và sau lúc BS. Hanaoko qua đời, nguyên lý của ông đã được y học phương Tây áp dụng, nâng cấp nên mới có những phương pháp gây tê hiện đại như ngày nay.

Những viên thuốc dạng bột đầu tiên

Ngay từ những năm đầu thế kỷ 19, con người đã nỗ lực cho ra đời những viên thuốc có chứa các hoạt chất hóa dược, nhưng nó lại bộc lộ những nhược điểm là dễ hấp thụ độ ẩm và giảm hiệu quả sử dụng. Sự cố này cuối cùng đã được khắc phục vào năm 1843 bởi một nghệ nhân người Anh William Brockedon, Brockedon gặp sự cố tương tự khi dùng các loại bút chì graphit. Sau nhiều năm hoạt động tìm tòi, Brockedon đã phát minh ra một chiếc máy ép để nén bột graphit thành những lõi chì, vừa rắn lại không bị hút ẩm. Cuối cùng các hãng dược phẩm cũng áp dụng theo cách làm này bằng cách mua lại bằng sáng chế của Brockedon để sản xuất máy ép thuốc, giúp con người sản xuất hàng loạt các loại dược phẩm dạng viên mà nó vẫn tồn tại tới ngày nay.          

 

Duy Hùng

0 nhận xét:

Đăng nhận xét